Giai đoạn II: Quân lực Việt Nam Cộng hòa phản công Mặt_trận_Trị_Thiên_Huế_năm_1972

Thay đổi nhân sự và kế hoạch phản công của QLVNCH

Quân lực Việt Nam Cộng hòa phản công tại mặt trận Quảng Trị, 1972

Ngày 5/5, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định trung tướng Ngô Quang Trưởng, nguyên tư lệnh Quân đoàn IV làm tư lệnh Quân đoàn I, tướng Hoàng Xuân Lãm bị điều về Bộ Tổng tham mưu "tùy nghi sử dụng". Chuẩn tướng Vũ Văn Giai cũng bị cách chức và phải giải trình việc "để mất một tỉnh vào tay Cộng sản" trước tòa án binh.

Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ định các sĩ quan chỉ huy mới cho các đơn vị thuộc quyền: Sư TQLC: Đại tá Bùi Thế Lân (tư lệnh), Đại tá Nguyễn Thành Trí (phó tư lệnh); Sư dù: Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng. Do ngờ rằng trong bộ tham mưu Quân đoàn 1 có điệp báo của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mà em ruột tướng Lãm (bà Hoàng Thị Nhạn) là đối tượng đáng nghi nhất [4]; tướng Trưởng thành lập Ban nghiên cứu kế hoạch phản công độc lập (theo chế độ tối mật, không phụ thuộc Ban tham mưu quân đoàn) do đại tá pháo binh Lê Văn Thân chỉ huy.

Kế hoạch của Ngô Quang Trưởng nhằm 3 mục tiêu:

1- Tái bổ sung, tái phối trí lực lượng để ngăn chặn địch, giữ Huế (đến 26/6 đã thực hiện được).2- Tái chiếm phần lãnh thổ đã lọt vào tay Cộng sản Bắc Việt.3- Vãn hồi trật tự, gây lòng tin cho quân, dân, cán, chính vùng giới tuyến.

Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng có sự thay đổi về nhân sự. Từ ngày 27/6; thiếu tướng Trần Quý Hai được cử làm Tư lệnh chiến dịch thay thiếu tướng Lê Trọng Tấn; trung tướng Song Hào được cử là chính ủy thay thiếu tướng Lê Quang Đạo. Mục tiêu của chiến dịch không còn là tấn công đánh chiếm Huế nữa mà chuyển thành phòng thủ, giữ vững vùng giải phóng. Tuy nhiên, do công tác chuẩn bị không tốt, hậu cần mới chỉ đảm bảo 50% vật chất; do các cấp chỉ huy không dự kiến trước, không thống nhất, tư tưởng quyết tâm tiến công trở thành tư tưởng phiêu lưu nên Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Nhiều đơn vị đã vào quá sâu để chuẩn bị tấn công Huế, không kịp rút ra do mệnh lệnh chuyển mục tiêu chiến dịch được phổ biến quá chậm.[5]

"Lam Sơn 72"

Loạt bài
Chiến tranh Việt Nam
Giai đoạn 1954–1959
Thuyết domino
Hoa Kỳ can thiệp
Miền Bắc – Miền Nam
Giai đoạn 1960–1965
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam
Kế hoạch Staley-Taylor
Chiến tranh đặc biệt
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm
Giai đoạn 1965–1968
Miền Bắc

Chiến dịch:
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Mũi Tên Xuyên –Sấm Rền

Miền Nam

Chiến tranh cục bộ
Chiến dịch:
Các chiến dịch Tìm-Diệt
Phượng Hoàng –Tết Mậu Thân, 1968

Diễn biến Quốc tế
Giai đoạn 1968–1972
Diễn biến Quốc tế
Việt Nam hóa chiến tranh
Hội nghị Paris
Hiệp định Paris
Chiến dịch:
Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 –
Hè 1972 –Mặt trận phòng không 1972 
Phòng không Hà Nội 12 ngày đêm
Giai đoạn 1973–1975
Hội nghị La Celle Saint Cloud
Chiến dịch:
Xuân 1975
Phước Long
Tây Nguyên  -Huế - Đà Nẵng
Phan Rang - Xuân Lộc
Hồ Chí Minh
Trường Sa và các đảo trên Biển Đông
Sự kiện 30 tháng 4, 1975
Hậu quả chiến tranh
Tổn thất nhân mạng
Tội ác của Hoa Kỳ và đồng minh
Chất độc da cam
tiêu bản

Ngày 28/6/1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh cuộc hành quân Lam Sơn 72 trên hai hướng:

  • Hướng Tây: Sư dù đã hội đủ 3 lữ đoàn (1,2,3) và 1 tiểu đoàn, liên đoàn biệt kích dù 81 cùng thiết đoàn 20 (tăng), thiết đoàn 7 (xe bọc thép) tấn công dọc theo quốc lộ 1, yểm hộ sườn trái có liên đoàn 1 biệt động quân.
  • Hướng Đông: Sư TQLC đã có đủ 3 lữ đoàn (147, 258, 369); Trung đoàn 4 bộ binh (sư 1), các thiết đoàn 17, 18 tấn công dọc bờ biển trên chính diện 12 km.
  • Lực lượng yểm hộ: Pháo 175mm, 155 mm, 105 mm mỗi loại 2 tiểu đoàn; pháo phòng không: 1 tiểu đoàn. Sư đoàn không quân 1 (ở Đà Nẵng, Phú Bài), hải quân vùng 1 và các lực lượng hải quân, không lực Hoa Kỳ được lệnh chi viện tối đa cho "Lam Sơn 72".

Chiều 28/6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đã cô lập được một bộ phận của các sư 304 và 308 liên minh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam-Quân đội Nhân dân Việt Nam ở nam Sông Mỹ Chánh. Trung đoàn pháo tầm xa 38 phải chôn cơ bẩm, phá hủy toàn bộ pháo 130 mm rồi rút ra (có một khẩu bị QLVNCH chiếm được, đem về triển lãm ở Sài Gòn tháng 10/1972)[6]. Trung đoàn 18 (sư 325) bị thương vong nặng phải rút ra củng cố, để trung đoàn 64 (sư 320B) vào thay. Mặc dù từ ngày 26, Bộ tư lệnh mặt trận (B5) đã gọi sư 304 và 308 quay lại chặn QLVNCH ở Tường Phước-Hướng Điền nhưng chỉ có trung đoàn 66 (sư 304) đến kịp và cũng bị đẩy lui.

Hướng Đông, ngày 29/6, các lữ TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao (thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy đánh ra, đẩy các trung đoàn 27 và 64 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lùi sâu hơn nữa về phía Triệu Phong.

Hướng Tây, ngày 2/7, trung đoàn 102 mới đến phối hợp với trung đoàn 66 chặn lữ dù 2 (QLVNCH) ở Tường Phước. Ngày 3/6,trung đoàn 36 phá sập Cầu Nhùng, lập chốt chặn ở bờ Bắc sông Nhùng. Trung đoàn 9 và 24 vẫn phải tiếp tục phá vây và tấn công phía sau cánh quân dù trong khi sức chiến đấu đã suy giảm nghiêm trọng[7]. Từ ngày 3 đến ngày 6/7, sau khi nhổ từng chốt chặn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên khoảng cách từng trăm mét một và thương vong hơn 300 quân, lữ dù 1 và liên đoàn 1 biệt động quân đã có mặt ở ngoại vi thị xã Quảng Trị nhưng không lọt vào được. Từ ngày 6 đến 13/7, các lữ dù 2 và 3 (lữ 1 chuyển về làm dự bị) tấn công TX từ hướng Tây và hướng Nam; các lữ 147 và 369 tấn TX từ hướng Đông nhưng đến tuyến Ngô Xá, Trà Trì, Cù Hoan, Trà Lộc thì bị các đơn vị của các trung đoàn 27, 64 (sư 320B), 18 (sư 325) và tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh chặn lại. Các trận đánh cấp tiểu đoàn đã diễn ra ở Quy Thiện, Trầm Lý, An Thái, Đại Nại. Bên sườn trái sư dù-QLVNCH, các lực lượng còn lại của trung đoàn 66 và 24 (sư 304) tập kích vào Cây Lời, Phú Long. Ngày 13/7, máy bay trực thăng chở đạt tá Nguyễn Trọng Bảo, tham mưu phó sư dù và 8 sĩ quan tham mưu bị súng 12,7 mm của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn rơi ngay tại TX Quảng Trị. Mũi đột kích sâu của sư dù và thiết đoàn 20 bị đẩy lùi.Ý định của QLVNCH chiếm thị xã trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được. Thương vong mỗi bên đến hàng nghìn người. QLVNCH mất 12 xe tăng các tiểu đoàn dù 1 và 5 bị tổn thất nặng. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hầu như không còn xe tăng tại mặt trận từ 26/6.

Ngày 14/7, Bộ tư lệnh B5 thành lập hai cánh quân phòng thủ TX Quảng Trị gồm: Cánh Đông: Sư 320B (nòng cốt), trung đoàn 18 (sư 325), tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh, tiểu đoàn 10 Quảng Trị, đoàn 1A đặc công hải quân. Trung đoàn 48 (sư 320) và tiểu đoàn 8 (Quảng Trị) được giao nhiệm vụ phòng thủ thành cổ và nội đô thị xã do chính ủy trung đoàn Lê Quang Tùy chỉ huy. Cánh Tây: sư 325 (thiếu trung đoàn 18), sư 308 (thiếu trung đoàn 102), trung đoàn 165 (sư 312), 1 tiểu đoàn cao xạ. Tuy nhiên, việc chỉ huy chung không được thống nhất. trên danh nghĩa, sư 320B chỉ huy chung nhưng các đơn vị hướng Tây lại do B5 chỉ huy trực tiếp.

Ngày 14/7, Sư dù và sư TQLC-QLVNCH tổ chức tấn công đợt 2 nhằm chiếm thị xã trước ngày 18/7 và cùng lắm phải trước ngày 27/7. Lữ dù 1 đánh Quy Thiện, Trì Bưu, Lữ dù 2 đánh Tích Tường, Như Lệ. Các lữ TQLC 147 và 369 tiến sát sông Vĩnh Định, chiếm An Tiêm, Nại Cửu và Bích La Đông. Trong trận này, lữ 369 TQLC tổn thất 2 đại đội và 11 trực thăng ở Nại Cửu. Đến ngày 16/7, lữ dù 1 đã chiếm được các làng Trì Bưu, Cổ Thành; Trung đoàn 18 (sư 325) bị tổn thất nặng phải rút ra Ái Tử-Đông Hà, Bộ tư lệnh B5 điều trung đoàn 95 (sư 325) vào thay. QLVNCH đã hình thành thế bao vây ba mặt quanh TX Quảng Trị nhưng chưa vào được nội đô.

Ngày 18/7, ở hướng Tây, Trung đoàn 88 (sư 308) và trung đoàn 48 (thiếu-Sư 320B) chiếm lại Long Hưng Bắc và ngã tư đường sắt; Tiểu đoàn 8 (Quảng Trị)và tiểu đoàn 2 (trung đoàn 48) chiếm lại Thạch Hãn và ngã tư đường 1; Trung đoàn 66 (sư 304) vẫn giữ dược Phú Long.

Ngày 22/7, Bộ tư lệnh B5 tung lực lượng thiết giáp cuối cùng có trong tay (tiểu đoàn 66) phối hợp với Trung đoàn 64 và tiểu đoàn 47 (Vĩnh Linh) phản đột kích vào tiểu đoàn 6 (lữ 258) và tiểu đoàn 9 (lữ 369) TQLC đang đổ bộ xuống Lệ Xuyên, Linh Chiểu tiến đánh Cửa Việt.

Từ ngày 25 đến ngày 27/7, tướng Lê Quang Lưỡng tung lực lượng dự bị cuối cùng (LĐ biệt kích dù 81) vào chiến đấu, chiếm được các làng Trì Bưu, Cổ Thành. Tiểu đoàn biệt lích dù 27 tiến sát góc Đông Nam Thành cổ nhiều lần lao lên định cắm cờ lên tường thành nhưng đều bị Trung đoàn 48 đẩy lùi. Hai bên tổn thất lớn về sinh mạng.

Ngày 28/7, thời hạn đánh chiếm thị xã Quảng Trị và thành cổ đã hết, tướng Ngô Quang Trưởng quyết định dừng cuộc tấn công của sư Dù, chuyển giao nhiệm vụ đánh chiếm thị xã Quảng Trị cho sư đoàn Thủy quân lục chiến. Trong tháng 7, mỗi ngày Không lực Hoa Kỳ huy động từ 40 đến 60 phi vụ B-52, 130 đến 150 phi vụ máy bay cường kích yểm hộ mặt đất cho QLVNCH.

Rút kinh nghiệm cách đánh vỗ mặt của Sư dù không thành công, tướng Bùi Thế Lân dùng chính chiến thuật của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ: chiến thuật lấn dũi làm phương thức tấn công chính. Lần này, tướng Lân không bị thúc ép thời hạn đánh chiếm TX Quảng Trị như tướng Lưỡng bởi hòa đàm Paris đã được nối lại. Mỗi đợt tấn công, tướng Lân cho 6 tiểu đoàn thuộc 3 lữ đoàn công kích, để lại 3 tiểu đoàn ở tuyến sau để dưỡng quân, thay thế, bổ sung, trang bị lại sau đó luân phiên thay nhau chiến đấu. Cách đánh này làm cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải liên tục chiến đấu và đối phó, liên tục tác chiến dẫn đến mệt mỏi trong khi quân số được thay thế rất hạn chế.

Từ ngày 29/7đến 19/8, Bộ Tư lệnh B5 bổ sung cho trung đoàn 165 (sư 312) cho hướng Tây, phối hợp với Trung đoàn 88 sư 308), trung đoàn 95 (sư 325) đột kích vào điểm cao 105B, Tích Tường, Thạch Hãn nhưng không đạt kết quả. Ở hướng Đông, đặc công K1, K5 (đoàn 135 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) đột kích Cảng Mỹ Thủy và trận địa pháo Hải Lăng. Các trung đoàn 101 (sư 325) và 27 (sư 320B) tiếp tục giành giật khu vực Nại Cửu, Chợ Sãi với sư Thủy quân lục chiến (QLVNCH). Ngày 9/8, Bộ tư lệnh B5 giao sư 325 chỉ huy chung các lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phòng thủ thị xã Quảng Trị.

Từ ngày 20 đến ngày 30/8, ở hướng Tây, sau khi được bổ sung quân và tái trang bị, sư dù có không quân và pháo binh yểm trợ tối đa đánh lấn phía Tây thị xã, chiếm ngã ba Long Hưng, ngã tư Thạch Hãn, Tích Tường. Các trung đoàn 102 và 88 (sư 308) bị thương vong nặng phải rút lui. Các trung đoàn 36 (sư 308) và 165 (sư 312) vẫn giữ được Tích Tường. Ở hướng Đông, trung đoàn 101 (sư 325) đột kích chiếm Chợ Sãi, trung đoàn 27 (sư 320B) chiếm Bích La Trung nhưng sau một ngày, các lữ đoàn 147, 369 TQLC - QLVNCH đã phản kích chiếm lại. Ngày 17/8, Lữ đoàn 258 TQLC đã đội kích vào trung tâm thị xã; khu vực Trì Bưu đã ba lần chuyển từ tay Trung đoàn 95 (sư 325-Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] sang tay Lữ 258 TQLC (QLVNCH) và ngược lại. Đến cuối tháng 8, QLVNCH vẫn giữ thế bao vây TX Quảng Trị từ ba mặt: Đông Bắc, Đông Nam và Tây Nam.

Ngày 5/9, tướng Trưởng quyết định lợi dụng đối phương đang nguy cấp do nước lụt sông Thạch Hãn dâng cao ngập Thành cổ để mở đợt tấn công thứ năm. Tham gia đợt này còn có thêm các liên đoàn biệt động quân 1 và 2, thiết đoàn tăng 21 (có trang bị xe tăng có súng phun lửa M-125) mới điều từ phía Nam ra. Sư đoàn dù huy động toàn bộ lực lượng được tăng cường liên đoàn 1 biệt động quân công kích thị xã từ hướng Tây Nam và hướng Nam. Sư đoàn thủy quân lục chiến được tăng cường thiết đoàn 21 và liên đoàn 2 biệt động quân tấn công thị xã từ hướng Đông và Đông Bắc. Ngày 6/9, các Trung đoàn 27 và 64 (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) phá vỡ phòng tuyến sông Vĩnh Định của Lữ đoàn 147 TQLC, mở hành lang nối với Nham Biều, Thạch Hãn. Trong thị xã, trung đoàn 95 (sư 325) và trung đoàn 48 (sư 320) đánh chặn lữ dù 3 ở Hải Trì, lữ dù 1 ở Trì Bưu, liên đoàn 1 biệt động quân ở Hành Hoa sát khu vực Thành cổ khoảng 500m đến 1 km. Ở các hướng khác, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không còn lực lượng chốt giữ phải lui dần, trung đoàn 102 (sư 308) phải bỏ Long Hưng rút về phía Tây, trung đoàn 24 (sư 304) phải rút về Tường Phước, sau đó bị nước lũ cô lập. Không lực Hoa Kỳ tăng gấp đôi số phi vụ B-52 và cường kích đánh phá các trận địa của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam gây thương vong lớn. Các trung đoàn 48 và 95 chỉ còn trên dưới 100 người, có trung đội chỉ còn 7-8 người.

Đài tưởng niệm liệt sĩ tại Thành cổ Quảng Trị

Ngày 13/9, tiểu đoàn 6, lữ 258 TQLC QLVNCH chiếm được góc Đông Nam Thành cổ. Ngày 15/9, Lữ đoàn 147 TQLC chiếm được góc Đông Bắc Thành cổ. Đêm 15 rạng ngày 16/9, Bộ tư lệnh B5 điều Trung đoàn 18 (sư 325) vào yểm hộ để rút toàn bộ các lực lượng đang chiến đấu ở TX Quảng Trị sang ta ngạn sông Thạch Hãn. Sáng 16/9 (theo lịch VNCH là 15/9), Lữ đoàn TQLC kéo cờ tại Thành cổ Quảng Trị, kết thúc cuộc hành quân Lam Sơn 72.

Tuy để thị xã Quảng Trị và Thành cổ mất vào tay QLVNCH nhưng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn giữ được hai căn cứ bàn đạp Tích Tường, Như Lệ, Phước Môn, Tân Téo phía Tây và Bích La, An Lộng, Chợ Sãi, Nại Cửu, Long Quang ở phía Đông trên hữu ngạn sông Thạch Hãn. Ngoài ra, sư đoàn 324 vẫn chiếm giữ các vị trí cực tây Quảng Trị. Đây là những mục tiêu mà tướng Ngô Quang Trưởng phải tiếp tục đối phó bằng cuộc hành quân Lam Sơn 72A trong giai đoạn sau.